mơ hồ trong gió lộng:
- Tôi yêu đồng hoang. Lần đầu tiên cô sống nơi nầy và không được yên ổn nên không hiểu tôi. Nếu cô thấy nó về đông cũng như qua hạ, cô sẽ giống tôi. Không đâu quyến rũ bằng đồng hoang. Cảnh sắc như thuộc về quá khứ. Đồng hoang được tạo dựng trước rồi mới đến rừng núi, thung lũng và biển cả. Lúc mặt trời lên, ta trèo lên đỉnh núi Roughtor lắng nghe gió thổi qua khe đá... cô sẽ hiểu...
Mary không hiểu gì cả. Nàng tự nhủ: không biết ông có giảng như thế giữa nhà thờ?
***
Joss Merlyn say tiếp năm hôm. Suốt ngày ấy qua ngày khác ông ta nằm dài mê man, trên cái giường nhỏ trong bếp. Miệng há hoác và ngáy pho pho. Tiếng ngáy vang dội khắp phòng. Năm giờ chiều hôm thứ năm ông ta tỉnh dậy, kêu khát và đòi uống... rượu chát, vừa kêu vừa khóc, như đứa trẻ. Bà vợ tức thì chạy lại, vỗ về bằng những lời dịu dàng, tay bưng ly nước dỗ chồng uống; lại sửa gối, đắp chăn. Trông bà khác hẳn, nhanh nhẹn và chu đáo quá. Merlyn nhìn quanh dáo dác, run rẩy, lầu bầu không ra tiếng. Lão để yên cho vợ lau mặt, thay ra giường, chải tóc... Chỉ mươi phút sau, ông ngủ lại, mặt bầm tím, lưỡi thè ra và lại ngáy làm Mary càng tởm.
Hai dì cháu qua ở tạm gian phòng khách đầy bụi. Lần thứ nhất, Mary thấy dì vui vẻ, tỉnh táo, nhanh nhẹn. Bà nói chuyện, có khi hát nho nhỏ nữa. Mary được biết cứ hai tháng Merlyn say bí tỉ như vậy một lần. Có khi thường hơn và lần nầy, cơn say là kết quả sự có mặt ông Bassat. Theo lời dì nàng, Merlyn trở về lúc 6 giờ chiều và đi thẳng vô quầy rượu, ở lì trong đó luôn. (May quá: lúc đó Mary đang lang thang trên đường về và lạc hướng.) Bà không biết Mary về lúc nào, và nghe Mary bảo nàng đi chơi, lạc, bà tin ngay. Bà khuyên nàng nên cẩn thận hơn, từ nay. Mary dấu tất cả mọi việc xảy ra. Và họ sống năm ngày yên tĩnh.
Thời tiết u ám nên Mary không ra khỏi cửa, nhưng đến ngày thứ sáu, khi mặt trời lên, cô gái lại tính vượt đồng hoang - dù nàng chưa quên cuộc mạo hiểm đã qua. Nhất là khi Joss tỉnh dậy la lối om sòm, khói từ bếptràn khắp nhà và dì Patience nhanh nhẩu mang thức ăn ra thì nàng lại đâm cáu kỉnh. Mary lấy một khúc bánh mì gói vào khăn, đi ra. Lần nầy, Mary hướng về phía tây, ngọn Kilmar. Vừa đi cô gái vừa nghĩ đến Francis, suốt buổi ông toàn nghe nàng nói, nàng nhớ đến khuôn mặt ông, đôi mắt ông, bộ tóc ông... Chà! Ông có vẻ giống tiên tử Elie quá! Một người như ông, vì sao lại làm linh mục phó nhỉ? Ông có vẻ siêu phàm quá!
Vài con hải âu bay là đà trên mặt hồ. Noel sắp đến rồi. Chắc ở Helford dân chúng đang rộn rịp trang hoàng nhà cửa, cây thông, và gà ngỗng được cho ăn nhiều cho béo? Mấy hàng bánh trái và các cô gái hẳn đều ưa nhìn... Vị mục sư thì tươi tỉnh cưỡi ngựa đến Trekiwarreb cụng ly với giáo dân? Linh mục Francis cũng cầu Chúa ban phúc cho họ đạo?
Một điều chắc chắc: lữ quán Giao Mai chả có gì thay đổi? Hơn một giờ sau, Mary dừng lại trước con suối chảy ngang, khung cảnh không lạ lắm, trước mặt cô gái là núi đá phẳng lì và xanh rêu. Sau lưng, ngọn Kilmar hiện ra như bàn tay khổng lồ chĩa ngón lên trời. Mary ngắm kỹ đầm lầy Trewartha lần nữa. Về hướng đông nam, bộ mặt đồi núi rực rỡ dưới mặt trời. Suối kêu róc rách đâu đó. Đầm lầy trải dài bên trái. Gió hây hẩy thổi làm ngọn cỏ lung lay xào xạc, có đám xanh tươi, có đám vàng, nâu. Nom hiền lành nhưng vô cùng nguy hiểm, vì bên dưới lún sâu.
Mary quay lưng lại đầm và băng suối, bước lên những mô đất cao. Trời ít mây, đồng hoang trải dài như bãi cát. Mấy con ngựa chạy từ đồi cao xuống làm cho con quạ đang rỉa lông vội vút bay lên, buông mấy tiếng “quà quạ” nghe buồn bã lạ lùng. Đàn ngựa nhảy trên đá chơm chởm, đuôi phất phơ, chen lấn nhau. Hình như chúng vừa được thả ra? Mary chợt thấy cửa rào bên trái được mở rộng. Một người đàn ông đi tới, tay xách cái xô. Thấy nàng, gã đàn ông vây vẩy, gọi tên nàng. Mary không tránh kịp: đúng là em trai chủ quán. Quần áo lem luốc bùn và lông ngựa, hắn cười thật tươi:
- Cô đến tìm tôi sớm hơn tôi nghĩ. Phải biết trước, tôi đã làm bánh thết cô. Ba ngày nay tôi ăn toàn khoai tây, khỏi mất công rửa bát.
Mary chưa kịp phản ứng, anh ta đã đưa cái xô cho nàng và lội nước lùa ngựa.
- Ra khỏi đây! Tụi bây làm đục nước uống của tao. Liệu hồn!
Rồi anh ta nhặt cái xô cạnh đó vào bảo Mary trả xô nàng đang cầm, xách cả hai cái xuống suối, múc đầy nước rồi nhăn răng trắng bóng ra, cười nữa:
- Nếu không gặp tôi, cô làm gì nào?
- Tôi không có ý định tìm anh. Nếu biết, tôi đã quẹo sang hướng khác.
- Tôi không tin cô. Nhưng dù sao, cô đã đến đây là tốt rồi. Ở lại ăn trưa với tôi, nghe? Có thịt trừu.
Cả hai trở về căn nhà tranh nằm lưng chừng đồi. Từ ống khói, một làn khói mỏng thoát ra. Sau nhà, còn những mảnh ván ghép sơ để làm rào nuôi súc vật và một khoảnh đất trồng khoai tây.
- Tôi nhóm lửa rồi, giờ chỉ cần nướng thịt. Cô biết cách làm chứ?
Mary nhìn Jean từ đầu tới chân:
- Anh mời khách kiểu gì vậy?
- Tôi ít có dịp mời khách lắm. Từ lúc mẹ tôi chết, tôi sống một mình. Mời cô vô nhà!
Mary cúi xuống để chui qua cánh cửa thấp. Gian phòng nhỏ vuông bằng nửa gian bếp của dì nàng. Ống khói trong góc thật rộng. Sân nhà dơ bẩn, đầy rác: vỏ khoai ruột bánh, vài cọng rau giá và tro bếp phủ cùng khắp. Mary kinh hoảng hỏi:
- Anh không bao giờ lau nhà hở? Bếp như chuồng heo! Anh không biết xấu hổ gì hết chắc? Đưa tôi cái chổi coi. Tôi không thể ăn tại một chỗ thế nầy!
Trong nửa giờ gian bếp sạch sẽ, sân nhà ướt và bóng nhoáng, rác rến biến mất. Mary dọn quét, lau một cách hăng hái. Rồi nàng soạn trong tủ ra, lấy bát dĩa dọn bàn. Thịt trừu và khoai tây hầm trong bếp bốc mùi thơm ngát. Jean từ ngoài cửa hít hà, nói chõ vô:
- Tôi cần một người đàn bà. Cô có muốn rời Lữ quán khốn nạn đến ở với tôi không?
- Anh không đủ tiền trả công cho tôi đâu.
- Chà! Đàn bà chúa hà tiện. Họ để tiền làm chi chớ? Mẹ tôi cũng vậy. Bà dấu tiền trong vớ, tôi chưa được thấy nó màu gì. Thôi đói quá rồi... Dọn lẹ lẹ...
- Anh bất lịch sự quá! Không cám ơn đầu bếp, lấy tay đi, dĩa nóng lắm đó!
- Chắc ở Helford cô học được nhiều điều hay? Tôi cho là đàn bà mới nứt mắt chả cần học ai cũng biết làm bếp... Cho tôi ly nước đi! Cô khéo tay quá! Nào, chúng ta cùng ăn, nhé? Mời cô, cứ tự nhiên, tôi dốt phép xã giao...
Hai người bắt đầu ăn. Mary nhỏ nhẹ, còn Jean nhai ngấu nghiến và không ngớt khen ngon:
- Từ khi mẹ tôi chết, giờ mới được ăn ngon một lần; (giọng tâm sự) chúng tôi đều sinh ra ở đây, trên gác kia. Nhưng hai anh lớn lắm tôi mới ra đời. Cha tôi đi vắng luôn. Mà hễ về là kiếm chuyện đánh mẹ tôi. Một lần tôi suýt ngất vì thấy ông cầm dao ném vào mặt mẹ tôi, máu chảy ròng ròng. Tôi thấy mẹ tôi vẫn điềm nhiên dọn bữa cho ông. Bà cưng tôi nhất nhà, vì vậy hai anh hay đánh tôi, hễ mẹ tôi quay lưng là tôi bị đòn rồi...
- Mẹ anh mất bao lâu?
- Bảy năm, trong dịp Noel. Sau khi cha tôi bị treo cổ, Matt chết đuối, Joss qua Mỹ châu. Mẹ tôi trở lại đạo, đọc kinh tối ngày, làm tôi bực quá, bỏ đi. Tôi tính làm thủy thủ nhưng bể không hợp với tôi nên tôi trở về. Mẹ tôi như bộ xương. Tôi bảo: “Mẹ ăn nhiều nhiều vào” mà bà không nghe, tôi lại bỏ đi. Chiều Noel tôi trở về, đói meo, cửa thì đóng, nhà trống trơn: mẹ tôi đã chết, chôn cách đó ba tuần... Kìa, có một miếng phô-mai trong tủ đó. Cô ăn chứ? Có sâu trong đó nhưng không hại gì đâu.
Mary ngồi im. Jean nhìn chăm chú cô gái, hỏi:
- Cô làm sao vậy? Bịnh hả? Mới thấy vui vẻ đó mà.
- Tôi chả làm sao cả. Tôi nghĩ rằng khi nào không còn một người trong dòng họ Merlyn nữa l