Lữ quán? Sợ nguy hiểm mà lại chọn một nơi vắng vẻ để làm ăn? Mà mở lữ quán để làm gì nếu không cho khách lương thiện ghé qua đêm? Dì nên thành thật với cháu: Lữ quán nầy được mở với mục đích gì? Và làm sao dì chú sống được nếu không tiếp khách?
- Dì đã nói rồi, chúng ta có khách hàng mà! (Giọng dì nóng nảy) Nhiều bữa, quầy rượu chật khách...
- Hôm qua, bác phu xe nói với cháu là những người tự trọng không hề ghé lại đây. Họ sợ!
Mary gằn từng tiếng.
Dì Patience tái mặt, mắt dì lộ vẻ hốt hoảng, dì nuốt nước bọt, thì thào:
- Chú Joss nóng như lửa, cháu thấy đó, chú không muốn ai xen vô chuyện riêng.
- Nhưng thưa dì, ai dòm ngó chi công việc của một ông chủ quán lương thiện? Dù cho chú nóng tính, đâu đến nỗi người ta phải chạy trốn? Đây không phải là lý do chính đáng.
Dì không cãi được. Mary tìm cách khác khơi chuyện:
- Tại sao dì đến đây? Mẹ con vẫn ngỡ là dì ở Bodmin...
- Dì gặp chú ở Bodmin nhưng không ở đó. Chú mua Lữ quán nầy của ông Bassat. Quán bỏ trống nhiều năm về trước, chú con muốn ở đây cho tới già, tới chết. Hồi xưa, ổng đi đây đó dữ lắm. Qua tận Mỹ Châu cơ.
- Chú chọn nơi hoang vu nầy để dưỡng già, kể cũng...lạ.
- Đây là nơi sinh trưởng của chú đấy chớ, cách đây vài dặm thôi. Em trai chú, thằng Jean vẫn ở trong căn nhà tổ phụ. Lâu lâu, nó có đến đây, nhưng...chú Joss không ưa em Jean của chú.
- Ông Bassat có đến đây không, thưa dì?
- Không.
- Sao vậy dì?
- Có sự hiểu lầm. Chú mua ngôi nhà nầy qua sự trung gian của người bạn. Ông Bassat chỉ biết chủ mới là chú khi chú dọn về đây. Ông ấy không bằng lòng.
- Can gì đến ông ấy? Bán thì người ta mua chứ?
- Xưa kia lúc còn ở Trewartha, nghĩa là lúc trẻ, chú con nổi tiếng hung tợn. Không phải lỗi ông, dòng họ Merlyn toàn man rợ thế cả. Thằng Jean còn tệ hơn chú nhiều. Nhưng ông Bassat nghe lời thiên hạ thêm thắt nên ghét chú con. Ông tức giận khi biết chú con mua Lữ quán của ông. Chỉ có thế thôi, con ạ!
Dì tựa lưng vào ghế, có vẻ mệt nhọc vì bị chất vấn. Mắt bà như van lơn cháu đừng cật vấn chi thêm. Nhưng Mary lạnh lùng tìm hiểu:
- Dì ơi! Dì hãy nói thật cho cháu biết, hãy nhìn cháu đây: căn phòng bí mật ở đầu hành lang có liên lạc gì với những xe cộ dừng lại ban đêm không?
Trễ quá rồi: Mary chợt hối nhưng đã muộn. Dì nàng xanh ngắt, môi run rẩy, mắt lạc thần, bà đưa hai tay che cổ, sợ hãi tột cùng. Mary quì xuống cạnh dì, tay quàng lấy cổ dì, ôm chặt bà và hôn lên tóc bà. Nàng run rẩy:
- Dì tha lỗi cho con? Con vụng về và quá tò mò. Con xấu hổ lắm, xin dì quên những gì con vừa hỏi.
Dì Patience im lặng, tay ôm lấy mặt. Mary vuốt ve và hôn tay dì. Rồi bà bỏ tay che mặt ra, mắt bớt vẻ kinh hoàng, bà nắm tay cháu, thều thào:
- Mary, di không che dấu cháu, nhưng sự thật có nhiều điều dì cũng không biết hết... Nhưng vì cháu là cháu dì, con của người chị yêu quí, dì phải báo trước cho cháu biết...
Bà nhìn nhớn nhác như sợ Joss hiện ra bất ngờ siết cổ mình:
- Có những điều xảy ra tại đây mà dì không bao giờ dám nghĩ đến hay nói đến. Những chuyện đáng sợ: chú Joss liên lạc với nhiều người kỳ lạ và lối mua bán cũng rất lạ. Có đêm, họ đến đây. Từ cửa sổ phòng con trên cổng chính con có thể nghe họ gõ cửa. Chú con sẽ mở cửa và đưa họ đi dọc theo hành lang đến căn phòng bí mật. Họ trò chuyện rất lâu và rút lui trước khi trời sáng. Mary! Khi họ đến, con nhớ cứ nằm yên, lấy gối bịt tai lại. Nếu con hỏi đến chuyện họ, con biết được một nửa câu chuyện của họ, tóc con sẽ bạc như dì đây. Con sẽ không rão lệ mỗi đêm và run giọng khi cất tiếng. Tuổi trẻ và sự vô tư của con sẽ biến mất như dì vậy. Đừng quên lời dì...
Dì đứng lên xô ghế ra. Mary nghe tiếng chân dì lên thang một cách uể oải, mệt nhọc và dì nằm lì suốt buổi trong phòng.
Mary ngồi bên cạnh chiếc ghế không. Xuyên qua khung cửa kính, ánh mặt trời tắt sau ngọn đồi xa nhất và mầu xám của trời đông lại bao phủ khắp Lữ quán Giao Mai.
***
Joss vắng mặt cả tuần, Mary có dịp dạo khắp vùng. Nàng chả bận rộn gì nhiều ngoài việc giúp dì làm bếp và lau dọn trong nhà. Nàng rong chơi tự do, sau bữa ăn trưa. Dì nàng thì không rời khỏi khuôn viên nhà bếp và chuồng gà. Bà không ưa đi dạo.
Mary được mặt trời hướng dẫn và nhờ sự hiểu biết thông thường của một nông dân, nên rất vững lòng. Đồng hoang còn man rợ hơn Mary tưởng: rộng như sa mạc, nó chạy dài từ đông sang tây. Vài ngọn đồi cao hiện ra ở chân trời. Nàng không biết giới hạn của nó ra sao, cho đến một ngày nọ nàng đi về hướng tây, leo qua núi đá cao nhất sau lữ quán nàng chợt thấy biển cả lấp lánh dưới nắng. Nhưng đây là vùng yên lặng, vắng vẻ đến rợn người. Trên núi, những khối đá tựa vào nhau tạo nên những hình thù quái dị, nom như những tên lính do Thượng Đế cắt đặt đứng canh tại đó. Vài khối đá khác trông như một bộ bàn ghế, cũng có những khối khác nhỏ hơn, nom hiền lành như một gã khổng lồ nằm che hết các bụi gai. Có phiến phẳng, có phiến dài, có phiến nhẵn như mặt bàn thờ, ngửa mặt chờ cuộc tế. Những đàn trừu hoang sống tại núi đá và quạ, và diều hâu. Đồi là tổ ấm của những sinh vật cô đơn. Đàn bò ăn cỏ trên đồng hoang, tìm đất cứng mà đến, chúng tránh những đám cỏ ngon lành nhưng thật ra không phải là một bãi cỏ mà là một vũng lầy đáng sợ.
Khi gió nổi lên,có tiếng ngân vang như tiếng hú trong các hốc đá, khi lại rên rỉ bi ai. Mary không biết gió từ hướng nào ào đến, nó trườn đi như một con vật vô hình trên mặt cỏ và cỏ rung động; nó lướt trên những vũng nước mưa động trong hốc đá, nước gợn sóng lên...
Trên những phiến đá, sự im lặng ngự trị, im lặng kỳ bí mênh mông. Như là sự im lặng của một kỷ nguyên khác, thời chưa có vết chân người trên quả đất. Sự yên tĩnh lạ lùng, đe dọa, không phải là sự yêu tĩnh được vây bọc trong tình thương và sự chở che của Chúa.
Mary băng qua đồng, leo lên núi đá, ngồi nghỉ trong một hốc đá, cạnh nguồn nước: lòng hồi hộp nàng nghĩ đến thời thơ ấu của Joss Merlyn, đến đóa hoa dại bị gió dữ cuốn đi trên bụi gai cằn cỗi.
Hôm khác, nàng lại băng đồng qua hướng đông, đến một ngọn đồi bao bọc bởi đồng hoang, không được khai khẩn. Đồng hoang nầy lại xuôi xuống một đầm lầy to, sâu, giữa có một dòng suối con, tiếng suối reo róc rách.
Bên kia đầm lầy là một khối đá sừng sững. Người ta có cảm tưởng như bàn tay xuất hiện từ dưới đầm lầy, đưa mấy ngón lên trời, bề mặt như được đẽo trong đá hoa cương, màu xám buồn buồn. Đó là ngọn Kilmar - Tor. Joss Merlyn đã sinh ra tại núi đá nầy và Matthew, em ông đã chết đuối trong đầm kia. Nàng tưởng tượng đến một gã trai trẻ băng qua đồng, miệng huýt sáo vui vẻ, bên tai có nhạc suối phụ họa... Rồi, trời sập tối quá nhanh làm anh ta không kịp đề phòng... Anh ta dừng lại, do dự một giây rồi chặc lưỡi bước tràn, được mươi bước thì anh ta bị lún xuống, bùn ngập gối, anh ta vừa chửi thề vừa cố sức rút chân lên nhưng quá muộn: càng phút càng bị lún sâu hơn, anh quờ quạng bám vào một đám cỏ, nhưng vô ích. Anh thét lên thất thanh, một con quạ đen bay ngang đầu anh, là là trước mặt anh kêu lên ai oán... Rồi nó vỗ cánh dồn dập, bay xa trong khoảnh khắc. Vài ngọn cỏ lay động và yên tĩnh lại bao trùm cảnh vật...
Mary quay lưng về phía Kilmar. Nàng chạy tràn qua khỏi đồng, vấp lên, ngã xuống giữa đám cỏ gai và đá rắn. Nàng chỉ ngừng lại để thở khi vũng lầy mất hút sau đồi. Chao! Nàng đã đi xa hơn nàng muốn. Đường về dài dằng dặc. Mary thực sự vững tâm khi thấy ống khói của Lữ quán sừng sững ngang tầm mắt. Và nàng hồi hộp khi th